Đại Thanh tần phi Cung_Thuận_hoàng_quý_phi_(Thanh_Nhân_Tông)

Quá trình nhập cung

Không rõ chính xác thời gian Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung, bà chỉ được ghi là nhập cung những năm đầu triều Gia Khánh (Gia Khánh sơ niên).

Theo mức độ thường thấy của Bát Kỳ tuyển tú, Nữu Hỗ Lộc thị phải từ 14 tuổi trở lên mới đủ điều kiện tuyển chọn tần phi, như vậy thời gian Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung là năm Gia Khánh thứ 5 (1800) hoặc Gia Khánh thứ 9 (1804), hai lần Bát Kỳ tuyển tú trước ghi nhận bà sinh nở đầu tiên sau khi nhập cung. Ở hai lần này, bà lần lượt là 13 tuổi cùng 17 tuổi, khả năng cao bà nhập cung năm thứ 9 hơn, và như thế thì Nữu Hỗ Lộc thị đã thuộc phạm vi Tú nữ lớn tuổi khi ấy. Ngay khi vừa nhập cung, Nữu Hỗ Lộc thị đã được phong làm Quý nhân, xưng hiệu là [Như; 如][1].

Năm Gia Khánh thứ 10 (1805), ngày 8 tháng 2, giờ Tuất, Như Quý nhân sinh được Hoàng bát nữ. Cùng lúc đó, Như Quý nhân được tấn lên Tần, xưng hiệu "Như" của bà cũng được phiên ra Mãn ngữ để dùng làm phong hiệu chính thức theo quy định. Căn cứ tài liệu Hồng xưng thông dụng (鸿称通用) của Nội vụ phủ, phong hiệu "Như" Mãn văn là 「Dahashūn」, ý là Thuận theo, Vâng theo. Ngày 4 tháng 6 (âm lịch) cùng năm, lấy Lễ bộ Thượng thư Cung A Lạp (恭阿拉) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Hô Tố Thông A (瑚素通阿) làm Phó sứ, sách phong làm Như tần (如嬪).

Sách văn viết:

朕惟椒庭翊化。教妇学于六宫。兰殿承辉。备内官于九室。鸾章光贲。翟采荣增。咨尔贵人钮祜禄氏、德著柔嘉。心存敬慎。协彤闱之礼秩。绳矩明衷。茂紫掖之声华。珩琚合度。是用晋封尔为如嫔。锡之册命。尔其玉齍赞洁。式膺蕃祉于璇闱。珠佩宣勤。益励芳规于绮观。钦哉。

.

Trẫm duy tiêu đình dực hóa. Giáo phụ học vu lục cung. Lan điện thừa huy. Bị nội quan vu cửu thất. Loan chương quang bí. Địch thải vinh tăng.

Tư nhĩ Quý nhân Nữu Hỗ Lộc thị, đức trứ nhu gia. Tâm tồn kính thận. Hiệp đồng vi chi lễ trật. Thằng củ minh trung. Mậu tử dịch chi thanh hoa. Hành cư hợp độ. Thị dụng tấn phong nhĩ vi Như tần.

Tích chi sách mệnh. Nhĩ kỳ ngọc 齍 tán khiết. Thức ưng phồn chỉ vu toàn vi. Châu bội tuyên cần. Ích lệ phương quy vu khỉ quan. Khâm tai.

— Sách văn tấn Như tần

Vào tháng 11 cùng năm khi phong Tần, con gái Hoàng bát nữ của bà cũng qua đời, không có phong hiệu. Năm Gia Khánh thứ 15 (1810), tháng 9 (âm lịch), bà được phong làm Như phi (如妃), cư ngụ Vĩnh Thọ cung. Một năm sau, ngày 25 tháng giêng, bà sinh thêm được Hoàng cửu nữ, nhưng tới 4 tuổi thì Hoàng nữ cũng qua đời.

Năm Gia Khánh thứ 19 (1814), ngày 27 tháng 2, giờ Sửu, Như phi sinh được con trai duy nhất, Hoàng ngũ tử Miên Du[2].

Cuối đời an tĩnh

Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), tháng 7 (âm lịch), Gia Khánh Đế băng hà, Đạo Quang Đế kế vị. Tân Đế đăng cơ, ban phát chỉ dụ thưởng khắp triều đình, trong đó ân phong nhiều Hoàng tử của Tiên Đế, con trai Như phi là Miên Du tuy mới 5 tuổi cũng được dự, ân phong làm Đa La Huệ Quận vương. Bên cạnh đó, Đạo Quang Đế còn truy phong cho Hoàng cửu nữ đã chết yểu của Như phi tước vị Cố Luân Tuệ Mẫn công chúa (固伦慧愍公主).

Ngày 23 tháng 8 (âm lịch) cùng năm, bà được Đạo Quang Đế tấn phong lên là Hoàng khảo Như Quý phi (皇考如貴妃)[3], trú ngụ tại tại Thọ An cung (壽安宮). Ngày 20 tháng 12, lấy Lễ bộ Tả Thị lang Thư Minh (书铭) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Mao Mô (毛谟) làm Phó sứ, hành sách phong lễ. Năm Đạo Quang thứ 26 (1846), ngày 10 tháng 3, bà được tấn phong lên là Hoàng khảo Như Hoàng quý phi (皇考如皇貴妃)[4]. Ngày 10 tháng 12, lấy Đại học sĩ Trác Bỉnh Điềm (卓秉恬) làm Chính sứ, Lễ bộ Hữu Thị lang Uy Thập Nột (倭什讷) làm Phó sứ, hành sách phong lễ.

Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), ngày 22 tháng 1 (âm lịch), Hàm Phong Đế sau khi ra chỉ tấn phong Hoàng quý phi làm Hoàng quý thái phi, đồng thời cũng ra chỉ dụ tấn phong Như Hoàng quý phi làm Hoàng tổ Như Hoàng quý thái phi (皇祖如皇貴太妃)[5]. Sang năm Hàm Phong nguyên niên (1851), ngày 10 tháng 3 (âm lịch), mệnh Đại học sĩ Trác Bỉnh Điềm làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Liên Thuận (联顺) làm Phó sứ, hành sách phong lễ[6].

Sách văn viết:

翊坤元而赞化。播媺重闱。体巽顺以含章。扬芬中禁。爰稽懿典。懋贲温纶。皇祖如皇贵妃钮祜禄氏。德秉柔嘉。性成淑慎。式仪型于图史。雅副徽音。协矩度于珩璜。虔修内职。椒涂佐治。翚衣彰茀禄之华。兰掖凝庥。螽羽衍桐封之祚。宜申隆礼。用表芳馨。谨以册宝尊封为皇祖如皇贵太妃。于戏。琅函纪盛。绥景福以无疆。瑶筴增辉。迓洪禧于有永。谨言。

.

Dực khôn nguyên nhi tán hóa. Bá 媺 trọng vi. Thể tốn thuận dĩ hàm chương. Dương phân trung cấm. Viên kê ý điển. Mậu bí ôn luân.

Hoàng tổ Như Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị. Đức bỉnh nhu gia. Tính thành thục thận. Thức nghi hình vu đồ sử. Nhã phó huy âm. Hiệp củ độ vu hành hoàng. Kiền tu nội chức. Tiêu đồ tá trị. Huy y chương phất lộc chi hoa. Lan dịch ngưng hưu. Chung vũ diễn đồng phong chi tộ. Nghi thân long lễ. Dụng biểu phương hinh. Cẩn dĩ sách bảo tôn phong vi Hoàng tổ Như Hoàng quý thái phi.

Vu hí! Lang hàm kỷ thịnh. Tuy cảnh phúc dĩ vô cương. Dao sách tăng huy. Nhạ hồng hi vu hữu vĩnh. Cẩn ngôn.

— Sách tôn Hoàng tổ Như Hoàng Quý Thái phi

Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), ngày 3 tháng 3 (âm lịch), Như Hoàng quý thái phi Nữu Hỗ Lộc thị qua đời tại Viên Minh Viên, hưởng thọ 74 tuổi. Ngày hôm sau, di thể của bà liễm nhập kim quan. Sang ngày 22 tháng 5 cùng năm, giờ Mẹo, hành lễ dâng tặng thụy hiệu tại Cát An sở, thụy hiệu là Cung Thuận Hoàng quý phi (恭順皇貴妃). Ngày 19 tháng 8, kim quan của bà tạm an ở Sùng Các trang (崇各庄).

Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 22 tháng 2, giờ Dần, kim quan của bà phụng di Thanh Tây lăng. Hàm Phong Đế dụ chỉ Nội vụ phủ Đại thần Minh Thiện (明善) tại Tị Thử sơn trang, mọi việc cần giản lược, đem tùy theo kim quan của tần phi Đạo Quang Đế là Thường phi tùy đến Thanh Tây lăng luôn thể. Kim quan của Cung Thuận Hoàng quý phi để ở gian thứ, đại điện phía đông. Ngày 27 tháng 2, an táng địa cung ở Xương lăng (昌陵).